Huyền Thoại Barcelona

Cựu danh thủ Barca: Trung vệ Patrik Andersson (2001–2004)

by: anh duc

0

Thông tin sự nghiệp Patrik Andersson

– Tên đầy đủ: Patrik Jonas Andersson

– Ngày sinh: 18/08/1971

– Chiều cao: 185cm

– Vị trí sở trường: Trung vệ

– Sự nghiệp cầu thủ:

Sự nghiệp CLB
NămĐộiTrậnBàn thắng
1989–1992Malmö FF9011
1992–1993Blackburn Rovers120
1993–1999Borussia M’gladbach17410
1999–2001Bayern Munich351
2001–2004Barcelona190
2004–2005Malmö FF191
Tổng51943
Sự nghiệp ĐTQG
1992–2002Thụy Điển963
Patrik-Andersson

Danh hiệu

Borussia Mönchengladbach

·        DFB-Pokal: 1994–95

Bayern Munich

·        Bundesliga: 1999–2000, 2000–01

·        Cúp Quốc gia Đức: 1999–2000

·        DFB-Ligapokal: 1999, 2000

·        UEFA Champions League: 2000–01

Malmö FF

·        Allsvenskan: 2004

Danh hiệu cá nhân

·        Đội hình tiêu biểu Bundesliga mùa: 1994–95, 1996–97

·        Đội hình tiêu biểu UEFA 2001

·        Hậu vệ Thụy Điển của năm 2001

·        Cầu thủ xuất sắc nhất Thụy Điển: 1995, 2001

Câu chuyện: Patrik Andersson – “Kẻ hết thời” xa lạ với Nou Camp

Patrik-Andersson

Patrik Andersson không phải là cái tên tầm thường. Đây là một cái tên từng khiến những chuyên gia tấn công phải im tiếng, và mang lại các bàn thắng quan trọng nhờ tài không chiến của một trung vệ. Với Thụy Điển, ông là “lá chắn thép”, một trong những trung vệ hay nhất mà đất nước này từng sản sinh ra. Với M’gladbach, ông mang đến chức vô địch Cúp Quốc gia đầu tiên sau nhiều năm. Với Bayern Munich, ông là một “quân bài tẩy” quan trọng ở hàng phòng ngự. Nhưng với Barca, cầu thủ này lại chỉ để lại những thất vọng não nề.

Sinh ra ở Bjärred, Andersson bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ bóng đá địa phương, Bjärreds IF. Năm 1988, các nhà tuyển trạch của Malmö FF nhận ra tài năng của cầu thủ mới 17 tuổi, và đưa anh về sân Swedbank Stadion ngay lập tức. Tại đây, ông có 3 năm phát triển tuyệt vời, trước khi có chuyển xuất ngoại đầu tiên vào năm 1992.

Điểm đến của Andersson đó là nước Anh với CLB Blackburn Rovers. Đội bóng “hoa hồng” khi đó đang từng bước trở thành một thế lực của bóng đá xứ Sương mù. Tuy nhiên cơ hội để một trung vệ mới 21 tuổi như Andersson cạnh tranh với những Henning Berg, Colin Hendry, Chris Price hay Alan Wright là không nhiều. Andersson còn bị đẩy lên đá tiền vệ trung tâm, hay dạt cánh như một hậu vệ biên, nhưng đều không thành công. Anh chuyển đến M’gladbach 1 năm sau đó, để lại một dấu ấn không đẹp cho các CĐV Blackburn Rovers.

Bundesliga là khoảng thời gian dài nhất mà Andersson gắn bó trong sự nghiệp. Ông khởi đầu khá khó khăn khi gặp chấn thương mắt cá, nhưng sau đó trở lại mạnh mẽ. Mùa 1994/1995, Patrik Andersson trở thành chốt chặn tin cậy nhất của M’gladbach, giúp đội bóng này giành được Cúp Quốc gia Đức, danh hiệu đầu tiên sau nhiều năm của CLB. 6 năm tại Borussia Park với Andersson kết thúc cũng không mấy tốt đẹp, với hàng loạt sự ra đi của các trụ cột, cùng sự đi xuống khó tin của CLB. Sau mùa 1998/1999, Bayern Munich đưa anh về với Allianz Arena.

Kinh nghiệm của Patrik Andersson giúp anh được HLV Ottmar Hitzfeld trọng dụng, đôi khi còn hơn cả những Markus Babel hay Thomas Linke. Sau mùa giải đầu không quá thành công, Andersson và Bayern Munich đã trở lại vào mùa 2000/2001. Dù là trung vệ, nhưng Andersson lại ghi những bàn thắng quan trọng. Điển hình là trận thắng lịch sử trước Hamburg tại vòng cuối Bundesliga 2000/01, giúp Bayern vượt qua Schalke để lên ngôi kịch tính. Trên sân Hamburg, Bayern bị dẫn 0-1 và nếu kết quả này giữ nguyên, Schalke mới là đội vô địch (bằng điểm Bayern nhưng hơn hiệu số). Nhưng Patrik Andersson đã đóng vai người hùng với bàn thắng ở phút 90+5, đem về kết quả hòa 1-1 và chiếc Đĩa bạc. Cầu thủ người Thụy Điển cũng đá chính trong trận chung kết Cúp C1 châu Âu, giúp “Hùm xám” vượt qua Valencia trên chấm phạt đền (dù chính Andersson đá hỏng 1 quả).

Sau mùa 2000/2001, với chính sách trẻ hóa lực lượng của Bayern Munich, Patrik Andersson nằm trong danh sách cần bán của đội bóng nước Đức. Barcelona là đội bóng sốt sắng nhất trong thương vụ này. CLB chủ sân Nou Camp đã chi ra 8 triệu euro để có chữ ký của trung vệ người Thụy Điển. Khi đó, HLV Carles Rexach muốn Andersson trở thành một “siêu dự bị” để có thể thay thế cặp trung vệ Abelardo-Frank de Boer kịp lúc. Mang trên mình chiếc áo số 4, số áo mà đội trưởng Pep Guardiola để lại trước khi sang Brescia, tương lai của Patrik Andersson được đánh giá là rất xán lạn.

Dù vậy, chấn thương đã cướp đi cơ hội thể hiện của trung vệ người Thụy Điển. Ở mùa đầu tiên khá ổn khi Andersson ra sân 19 trận. Tuy nhiên ở mùa sau đó, ông gần như không thi đấu bởi vết đau khá nặng ở đầu gối phải. Thể lực của Andersson cũng không còn sung mãn ở tuổi 31. Cùng với đó, những Philippe Christanval hay các cầu thủ trẻ gồm Puyol, Oleguer,… nổi lên chơi cực hay cũng khiến cơ hội ra sân của Andersson giảm hẳn. Sau mùa 2003/2004, khi cần tiền để bù vào thương vụ đình đám Ronaldinho, Barca đã phải thanh lý với hàng loạt cầu thủ. Patrick Andersson cũng nằm trong số đó. Ông quay về Malmo và thi đấu thêm 1 mùa trước khi giải nghệ. 

Sự nghiệp của Patrik Andersson tại ĐTQG cũng đáng nhớ khi ông nằm trong thế hệ vàng đầu tiên kể từ sau World Cup 1958 (với bộ ba đình đám Gunnar Gren, Gunnar Nordahl và Nils Liedholm) ở đầu thập niên 90 của bóng đá Thụy Điển. Bộ khung ĐT Thụy Điển thành công ở World Cup 1994 cũng từng vào bán kết Euro 1992 với những gương mặt như Patrik Andersson, Anders Limpar, Tomas Brolin, Thomas Ravelli, Kennet Andersson hay Henrik Larsson, Martin Dahlin.

Theo dõi các tin tức mới nhất của FCB88 tại:

Leave a comment

Bài viết khác

juan-roman-riquelme
Tháng Mười 27, 2020

Thông tin Juan Roman Riquelme – Tên thật: Juan Roman Riquelme – Ngày sinh: 24/06/1978 – Chiều cao:…

gabri
Tháng Mười 27, 2020

Thông tin Gabri – Tên đầy đủ: Gabriel Francisco García de la Torre – Ngày sinh: 10/03/1979 –…

frank-de-boer-barca
Tháng Mười 27, 2020

Thông tin Frank de Boer – Tên thật: Franciscus de Boer – Ngày sinh: 15/05/1970 – Chiều cao:…

Ludovic Giuly
Tháng Mười 27, 2020

Ở giai đoạn 2004 – 2007, Barca đang gặp khó khăn về đội hình bóng đá và một…