Lịch sử Real Madrid: Đỉnh cao danh vọng của đội bóng hoàng gia

by: admin

0

Real Madrid là đội bóng xuất sắc nhất thế kỷ 20 theo lựa chọn của Liên đoàn thống kê và lịch sử bóng đá thế giới (IFFHS). Nếu như Barcelona quyến rũ NHM với những bí ẩn, sự lãng mạn của phong cách tiki-taka thì Real Madrid được nhìn nhận như một CLB của sự bền vững và làm những con tim yêu mến trái bóng tròn háo hức bằng việc quy tụ những tài năng đắt giá nhất thế giới.

Có lẽ không cần đề cập quá nhiều về Real Madrid, bởi riêng cái tên cũng đã đủ nói lên sự vĩ đại. Dù vậy, những chi tiết của đội bóng, chẳng hạn như những thành tích trong suốt những năm qua hay đội hình thì không phải ai cũng nắm rõ. Bài viết dưới đây của FCB88 sẽ tổng hợp lại những thông tin cần thiết và thú vị cho quý bạn đọc.

Giới thiệu Real Madrid

Lịch sử hình thành

Real Madrid Club de Fútbol (Câu lạc bộ Bóng đá Hoàng gia Madrid), thường được gọi là Real Madrid, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp tại Madrid, Tây Ban Nha. Đội bóng mặc màu áo trắng truyền thống từ khi được thành lập vào 3 tháng 6 năm 1902 với tên gọi Câu lạc bộ Bóng đá Madrid. Từ Real có nghĩa là Hoàng gia và đã được vua Alfonso XIII phong cho câu lạc bộ vào năm 1920 cùng chiếc vương miện trong logo của đội. Câu lạc bộ đã trở thành một thế lực lớn trên đấu trường trong nước và châu Âu từ những năm 1950.

Logo

Nhắc tới Barcelona FC, người hâm mộ sẽ nghĩ ngay tới câu lạc bộ Real Madrid. Đây là một trong những logo các đội bóng La Liga được thiết kế khá đơn giản với 3 chữ MFC lồng vào nhau viết tắt cho Madrid Club de Futbol. Logo có vương miện ở phía trên, gạch chéo hình con dấu thể hiện vua Alonso XIII đã trao cho đội bóng này con dấu đại diện hoàng gia vào năm 1920.

Biệt danh

Ngoài Los Blancos, Real Madrid còn sở hữu nhiều biệt danh khác.

“Meringues” – màu trắng – là một trong những biệt danh của Real Madrid, được nhà báo nổi tiếng Matias Prats Canete làm cho trở nên phổ biến. Một biệt danh cũng rất nổi khác của họ là “Vikings”.

“Kền kền trắng” – Biệt danh quá quen thuộc đối với những người hâm mộ bóng đá, nhất là những người Fan hâm mộ ở Việt Nam. “Kền kền trắng” được dùng để chỉ một thế hệ bóng đá “Quinta del Buitre” huyền thoại của Câu lạc bộ Real Madrid.

Los Galácticos – Biệt danh này có nghĩa tương ứng là Thiên Hà. Đây là biệt danh mới nhất do các Fan hâm mộ bóng đá đặt cho Câu lạc bộ Real Madrid. Biệt danh này do các nhà quản lý cao cấp khi đội bóng toàn những cầu thủ có xu hướng ký kết hợp đồng với ngôi sao bóng đá giỏi, nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng lớn nhất đến thiên hà như: D. Figo, F. Zidane, C. Ronaldo hay D. Beckham,…

real-madrid

Sân vận động

Sân vận động Santiago Bernabéu (tiếng Tây Ban Nha: Estadio Santiago Bernabéu) là sân vận động bóng đá ở thành phố Madrid, Tây Ban Nha. Với sức chứa hiện tại là 81.044 chỗ ngồi, đây là sân nhà của Real Madrid kể từ khi hoàn thành vào năm 1947. Đây là sân vận động lớn thứ 2 ở Tây Ban Nha và lớn nhất trong Vùng đô thị Madrid.

Santiago Bernabéu là một trong những địa điểm bóng đá nổi tiếng nhất thế giới. Nó đã tổ chức trận chung kết cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League trong bốn lần: năm 1957, 1969, 1980, 2010. Các trận đấu cuối cùng cho Giải vô địch bóng đá châu Âu 1964 và Giải vô địch bóng đá thế giới 1982, cũng được tổ chức tại Bernabéu, khiến nó trở thành sân vận động đầu tiên ở châu Âu tổ chức cả trận chung kết Euro và trận chung kết World Cup.

Real Madrid và các dấu mốc lịch sử

Cuối thế kỷ 19 Bóng đá từ Anh du nhập sang Tây Ban Nha và thủ đô Madrid là một trong những nơi đầu tiên chơi môn thể thao này. Real Madrid được chính thức thành lập vào ngày 6/3/1902, nhưng thực chất lịch sử của CLB được bắt đầu từ năm 1900. Khi ấy, Julian Palacios quyết định tách khỏi Football Sky để thành lập ra Madrid Football Club. Ngay trong năm đầu thành lập (1902) CLB đã cho ra mắt bộ trang phục toàn trắng và đây đã trở thành trang phục truyền thống của CLB.

Năm 1904, Madrid FC sát nhập với CLB Moderno và Carlos Padros, người có vai trò rất quan trọng của CLB, đã được bầu làm chủ tịch mới. Đến năm 1905, Real chính thức giành được chiếc Cúp Nhà Vua, danh hiệu đầu tiên trong lịch sử CLB.

Ngày 29/6/1920 trở thành một ngày cực kỳ trọng đại trong lịch sử của Madrid FC khi nhà Vua Tây Ban Nha khi ấy đã phong cho CLB tước vị Hoàng gia. Đây là một vinh dự to lớn mà không phải ai cũng có và cái tên Real Madrid chính thức được thừa nhận kể từ đây. Trên biểu tượng của CLB được gắn thêm chiếc vương miện màu vàng.

Ngày 10/2/1929, giải VĐQG Tây Ban Nha được tiến hành khỏi tranh và trong trận đấu đầu tiên của mình, Real Madrid đã giành thắng lợi trước CLB Europa với tỷ số 5-0. Dù vậy, phải đến 3 năm sau (1932), Real Madrid mới giành được chức VĐ đầu tiên và lập kỷ lục không thua (thắng 10, hòa 8).

Một năm sau, Real lần thứ hai liên tiếp trở thành nhà VĐ TBN. Tuy nhiên, danh hiệu này cũng khép lại một khởi đầu tốt đẹp của Real để rồi sau đó đội bóng Hoàng gia chỉ còn là cái bóng hai đối thủ khổng lồ của Barcelona và Athletic Bilbao ở giải trong nước.

Phải đến mùa giải 1953/54, Real mới tìm lại được những ngày tháng vinh quang. Đây cũng là thời kỳ hoàng kim của CLB và mở ra một chương mới cho lịch sử của Real khi những cái tên như Di Stefano (Argentina – TBN), Hector Rial (Argentina), Gento, Puskas (Hungaria – TBN)… lần lượt xuất hiện.

Khi ấy, với những huyền thoại vĩ đại của bóng đá thế giới trong đội hình, Real không chỉ thống trị hoàn toàn ở giải trong nước mà còn làm mưa làm gió tại đấu trường Cúp C1 trong những ngày đầu giải đấu này thành lập với 5 chức VĐ liên tiếp.

Vào những năm 1970s, Real Madrid dành thêm 5 danh hiệu La Liga và 3 Cúp nhà Vua. Đội bóng lọt vào trận chung kết UEFA Cup lần đầu tiên vào năm 1971 và thất bại trước đội bóng Anh là Chelsea với tỉ số 1-2. Đầu những năm 1980s, Real Madrid mất đi vị thế của mình ở La Liga cho đến khi một nhóm những ngôi sao “cây nhà lá vườn” mang thành công ở đấu trường quốc nội tới câu lạc bộ. Phóng viên thể thao người Tây Ban Nha Julio César Iglesias đặt cho thế hệ cầu thủ ấy cái tên La Quinta del Buitre (Tạm dịch là “Năm con Kền kền”) lấy từ biệt danh của một trong những cầu thủ, Emilio Butragueño. “Kền kền trắng” cũng là biệt danh của cả CLB từ đó.

Năm 1996, Chủ tịch Lorenzo Sanz chỉ định Fabio Capello làm huấn luyện viên của đội. Dù nhiệm kỳ của ông chỉ kéo dài đúng một mùa, Real Madrid vẫn khẳng định được vị thế nhà vô địch. Những cầu thủ như Roberto Carlos, Predrag Mijatović, Davor Šuker và Clarence Seedorf được đưa về để củng cố đội hình vốn đã hùng mạnh với những Raúl, Fernando Hierro, Iván Zamorano, và Fernando Redondo. Kết quả, Real Madrid (với sự gia nhập của Fernando Morientes năm 1997) cuối cùng cũng kết thúc 32 năm mòn mỏi chờ đợi chiếc Cúp châu Âu thứ bảy. Năm 1998, dưới sự dẫn dắt của Jupp Heynckes, đội bóng áo trắng đánh bại Juventus 1–0 trong trận chung kết nhờ bàn thắng của Predrag Mijatović.

Tháng 7 năm 2000, Florentino Pérez được bầu làm chủ tịch câu lạc bộ. Ông tuyên bố trong chiến dịch tranh cử của mình sẽ xóa bỏ khoản nợ 270 triệu Euro của câu lạc bộ và nâng cấp cơ sở vật chất cho đội. Dù vậy, lời hứa quan trọng nhất của ông đã thành công khi đưa về Luís Figo. Năm tiếp theo, đội bóng tái phân vùng khu tập luyện và bắt đầu tập hợp Dải ngân hà Galáctico nổi tiếng với những gương mặt lẫy lừng như Zinédine Zidane, Ronaldo, Luís Figo, Roberto Carlos, Raúl và David Beckham. Không thể phủ nhận đây là một canh bạc lớn khi đội bóng không thể giành được danh hiệu gì trong ba mùa giải sau khi dành một cúp UEFA Champions League, 1 Cúp liên lục địa năm 2002 và La Liga năm 2003.

Suốt 1 thập kỷ sau đó, Real Madrid hầu như không có thêm nhiều danh hiệu, đồng thời thường xuyên đứng dưới Barca trong các cuộc đua vô địch. Phải đến mùa 2013/2014, thành công thật sự mới đến với họ sau chức vô địch Champions League dưới thời Ancelotti, và cũng là chức vô địch lần thứ 10 (Decima) của Real Madrid.

Trong 3 mùa giải liên tiếp (từ 2015-2016 đến 2017-2018), HLV Zinedine Zidane và các học trò đã có 3 lần vô địch Champions League, một kỷ lục vô tiền khoáng hậu trong lịch sử.

Danh hiệu

UEFA Champions League/Cúp C1: 13 lần (kỉ lục)

1955/56, 1956/57, 1957/58, 1958/59, 1959/60, 1965/66, 1997/98, 1999/00, 2001/02, 2013/14, 2015/16, 2016–17, 2017–18.

Cúp Liên lục địa: 3 lần

1960, 1998, 2002.

UEFA Cup: 2 lần

1985, 1986.

UEFA Super Cup/Siêu cúp bóng đá châu Âu: 3 lần

2002, 2014, 2016, 2017.

Cúp vô địch thế giới các câu lạc bộ: 4 lần

2014, 2016, 2017, 2018.

Vô địch Tây Ban Nha (La Liga): 34 lần (kỉ lục)

1931/32; 1932/33; 1953/54; 1954/55; 1956/57; 1957/58; 1960/61; 1961/62; 1962/63; 1963/64; 1964/65; 1966/67; 1967/68; 1968/69; 1971/72; 1974/75; 1975/76; 1977/78; 1978/79; 1979/80; 1985/86; 1986/87; 1987/88; 1988/89; 1989/90; 1994/95; 1996/97; 2000/01; 2002/03; 2006/07; 2007/08; 2011/12, 2016–17, 2019–20.

Cúp Nhà vua (Copa del Rey): 19 lần.

1904/05; 1905/06; 1906/07; 1907/08; 1916/17; 1933/34; 1935/36; 1945/46; 1946/47; 1961/62; 1969/70; 1973/74; 1974/75; 1979/80; 1981/82; 1988/89; 1992/93; 2010/11; 2013/14.

Siêu Cúp Tây Ban Nha (Supercopa de Tây Ban Nhaaña): 11 lần.

1988; 1989; 1990; 1993; 1997; 2001; 2003; 2008; 2012, 2017, 2019-2020

Cúp Liên đoàn bóng đá Tây Ban Nha (Copa de la Liga): 1 lần.

1984/85.

Các huyền thoại CLB

Một số cầu thủ nổi bật từng khoác áo Real Madrid: Alfredo Di Stefano, Ferenc Puskas, Francisco Gento, Vincente del Bosque, Fernando Hierro, Michael Laudrup, Santillana, Raul, Guti, Roberto Carlos, Zinedine Zidane, Steve McManaman, Michel Salgado, Hugo Sanchez, Luis Figo, David Beckham, Iker Casillas, Cristiano Ronaldo…

# Cầu thủ Số trận thi đấu nhiều nhất
1 Raúl 741
2 Iker Casillas 725
3 Manuel Sanchís 710
4 Sergio Ramos 654
5 Santillana 645
6 Fernando Hierro 601
Francisco Gento 601
8 José Camacho 577
9 Pirri 561
10 Míchel 559

 

# Cầu thủ Số bàn thắng nhiều nhất
1 Cristiano Ronaldo 450
2 Raúl 323
3 Alfredo Di Stéfano 308
4 Santillana 290
5 Karim Benzema 250
6 Ferenc Puskás 242
7 Hugo Sánchez 208
8 Francisco Gento 182
9 Pirri 172
10 Emilio Butragueño 171

Đội hình hiện tại

HLV trưởng: Zinedine Zidane (từ 11/03/2019 đến nay) 

Số áo Vị trí Quốc tịch Cầu thủ
1 GK Bỉ Thibaut Courtois
2 DF Tây Ban Nha Dani Carvajal
3 DF Brazil Éder Militão
4 DF Tây Ban Nha Sergio Ramos (Đội trưởng)
5 DF Pháp Raphaël Varane (Đội phó 3)
6 DF Tây Ban Nha Nacho
7 FW Bỉ Eden Hazard
8 MF Đức Toni Kroos
9 FW Pháp Karim Benzema (Đội phó 2)
10 MF Croatia Luka Modrić
11 FW Tây Ban Nha Marco Asensio
12 DF Brazil Marcelo (Đội phó)
13 GK Ukraine Andriy Lunin
14 MF Brazil Casemiro
15 MF URU Federico Valverde
17 FW Tây Ban Nha Lucas Vázquez
18 FW Serbia Luka Jović
19 DF Tây Ban Nha Álvaro Odriozola
20 FW Brazil Vinícius Júnior
21 MF Na Uy Martin Ødegaard
22 MF Tây Ban Nha Isco
23 DF Pháp Ferland Mendy
24 FW Tây Ban Nha Mariano
25 FW Brazil Rodrygo

FCB88 hy vọng những thông tin kể trên đã giúp độc giả có cái nhìn khách quan hơn về Real Madrid. Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật thêm những thông tin mới nhất, mời quý độc giả chú ý theo dõi.